Nguyễn Trãi Quốc Âm Từ Điển
A Dictionary of 15th Century Ancient Vietnamese
Trần Trọng Dương.

Quốc Ngữ hoặc Hán-Nôm:

Phần giải nghĩa Hàn Phi Tử
Biện Hoà 卞和
dt. <Pháp> người nước sở thời Xuân Thu. Sách Hàn Phi Tử ghi chuyện: ”Biện Hoà người nước sở nhặt được một viên ngọc thô ở kinh sơn, đem đến dâng cho lệ vương, lệ vương cho thợ ngọc xem, thợ ngọc bảo đó là đá. Vua cho hoà là nói dối, bèn chặt chân trái hoà đi. Khi lệ vương chết, Vũ Vương tức vị, hoà lại đem viên ngọc thô ấy hiến lên Vũ Vương, Vũ Vương lại sai thợ ngọc xem, vẫn bảo là đá. Vua cho hoà là lừa, bèn sai người chặt nốt chân phải. Vũ Vương băng, Văn Vương tức vị, hoà ngồi ôm ngọc khóc dưới chân núi kinh sơn, liền ba ngày ba đêm, khóc hết nước mắt thì ra máu. Văn Vương nghe biết chuyện ấy, bèn sai người đến hỏi: ‘người trong thiên hạ bị chặt chân thì thiếu gì, sao ngươi cứ khóc mãi thế? hoà bảo: ‘ta chẳng phải buồn vì bị chặt chân. Ngọc quý mà bảo là đá, người ngay mà bảo là dối, cho nên ta mới khóc’. Văn Vương sai thợ mài, quả là ngọc thực, bèn gọi ngọc ấy là hoà thị chi bích. Hàn Phi Tử bình luận: “châu ngọc là vật vua chúa mê lắm, họ hoà dâng ngọc thô tuy chẳng hại đến vua, thế mà hai chân bị chặt, rồi sau mới luận được ngọc quý. Bàn về ngọc khó như thế đấy” (夫珠玉人主之所急也,和雖獻璞而未美,未為主之害也,然猶兩足斬而寶乃論,論寶若此其難也). Chuyện trên được xếp trong chương cô phẫn (chuyện về những người cô đơn bi phẫn). Nguyễn Trãi hẳn có liên hệ điển này với bản thân với nỗi niềm của kẻ cô trung, thất sủng. Thương nhẫn Biện Hoà ngồi ấp ngọc, đúc nên Nhan Tử tiếc chi vàng. (Tự thuật 117.3).
thằng mặc 繩墨
◎ Nôm: 䋲𱗐
dt. <từ cổ> còn có âm đọc trại là thừng mực. thằng mặc là dụng cụ đo của thợ mộc được làm bằng sợi dây nhuộm đen bằng mực tàu, thợ dùng dây nảy trên mặt gỗ làm dấu để cưa cho thẳng. Dân gian có câu: thẳng mực đau lòng gỗ. Thước đo độ thẳng của chiều ngang thì gọi là chuẩn 準, nên trỏ thước đo nói chung thì có chữ chuẩn thằng 準繩, và sau lại có chữ mực thước để trỏ khuôn mẫu tiêu chuẩn. Sách Tuân Tử thiên Khuyến học ghi: “Gỗ thẳng đúng mực thước, gỗ cong làm bánh xe.” (木直中繩 , 輮以為輪 mộc trực trúng thằng, nhụ dĩ vi luân). Sách Trang Tử thiên Tiêu diêu du ghi: “Huệ Tử nói với Trang Tử: ‘tôi có một cây lớn, người ta thường gọi là cây sư, cái gốc đại của nó thì phình to chẳng thước mực nào nảy được, cành nhỏ của nó thì cong queo chẳng thước quy thước củ nào đo được; dựng nó bên đường, không thợ mộc nào thèm ngó tới.” (惠子謂莊子曰:“吾有大樹,人謂之樗。其大本擁腫而不中繩墨,其小枝卷曲而不中規矩,立之塗,匠者不顧). Sách Sử Ký thiên Lão Tử- Hàn Phi Tử liệt truyện ghi: “Hàn Phi Tử dẫn dụng thằng mặc (chuẩn mực) để xét đoán sự tình, minh giải thị phi.” (韓子引繩墨,切事情,明是非). Được thua cứ phép làm thằng mặc, cao thấp nài nhau tựa đắn đo. (Bảo kính 152.3). x. mực thước.
trí thuật 智術
dt. trí tuệ và mưu thuật. Sách Hàn Phi Tử thiên Cô phẫn ghi: “Kẻ sĩ có trí thuật ắt nhìn xa xét rõ, nếu không xét rõ thì không thể tự chiếu sáng cho chính mình vậy” (智术之士,必遠見而明察,不明察,不能燭私). Không hết kể chi tay trí thuật, để đòi khi ngã thắt khi eo. (Mạn thuật 32.7).